Ngôi nhà đó, đúng hơn là ngôi biệt thự đó của gia đình bà Chi. Tôi tới đó từ ngày còn rất trẻ, khi tôi mới được nhận vào làm ở một cơ quan hành chính sự nghiệp. Đó là những ngày đầu tiên tôi đi làm ở một cơ quan dân chính, háo hức lắm. Tôi được xếp ở chung phòng tập thể trong cơ quan cùng đám bạn độc thân và những người có gia đình ở xa. Sau nửa năm tôi đã quen hết mọi người trong cơ quan và cứ tưởng đây là tất cả. Nhưng đến cuối năm đại hội công đoàn mới biết cơ quan vẫn còn một người nữa. Người này tôi chưa gặp bao giờ. Mấy đứa bạn cùng phòng hành chính với tôi gọi bà bằng cô, cô Chi, tôi cũng gọi bà bằng cô, còn lại những người lớn khác đều chào bà bằng chị rất niềm nở. Trong đại hội cô Chi ngồi tại chỗ ý kiến gì đó khá dài dòng. Đến lượt những lãnh đạo cơ quan đáp lại cũng dài và nhiều lần nói câu “xin chị thông cảm”. Tôi quay sang người ngồi cạnh chưa kịp hỏi đã được nghe giải thích: “Bả là vợ ông…”. Tôi hơi bị bất ngờ. Hóa ra đây là- có lẽ tôi phải gọi bà là phu nhân chứ nói từ vợ nghe dân dã quá- của ông…chồng bà, một người chúng tôi rất thường nghe tên trong giờ đọc báo hàng ngày. Nhưng chỉ bất ngờ một chút vậy thôi. Với tôi tin này không có gì hệ trọng lắm nên tôi không hỏi gì. Dù vậy anh đồng nghiệp ngồi cạnh vẫn nói cho tôi biết thêm cô Chi là cán bộ trong biên chế chính thức của cơ quan và đã một năm nay bà không đi làm được vì lí do sức khỏe. Đại để vậy. Còn bà đang nói về vấn đề gì thì tôi không quan tâm nữa vì lúc đó hội trường rất ồn. Phía dưới bà con lại đang sôi nổi bàn thảo về bữa liên hoan chiều nay.Tôi cũng giống họ. Chúng tôi chỉ mong đại hội kết thúc để sớm tiến tới tiết mục liên hoan.
Giờ giải lao tôi đang đứng ngoài hành lang thì cô Chi đến bên hỏi chuyện: Cháu mới về cơ quan à? Về bao giờ? Làm ở bộ phận nào? Tôi nghĩ bà chỉ hỏi cho có chuyện trong lúc giải lao vậy thôi, nhưng cũng thấy vui và một chút vinh dự nữa. Bà uốn tóc cao, khuôn mặt trang điểm hơi đậm và không được khéo. Tuy vậy nhìn bà vẫn có một khoảng cách với phần nhiều những cán bộ cơ quan mới ở trên núi xuống ăn vận còn giản đơn và tác phong còn đậm chất chiến khu.
Cuối ngày lúc tan cuộc liên hoan cô Chi lại chủ động dắt xe đến rủ tôi: “Đi về nhà cô chơi không, đi?”. Tất nhiên tôi đi. Hôm đó là một ngày vui, mọi người dắt xe ra cổng đều như có hơi men, nói cười rổn rảng. Tôi mượn được xe của anh phó phòng rất dễ dàng. Lúc tôi dắt xe ra anh phó phòng liếc theo, nói: “Tí ta tí tởn!”.
Tôi đi theo cô Chi, hai cô cháu đạp hai chiếc xe đạp. Khi thấy bà vừa dừng xe trước một cái cổng vòm có giàn hoa đỏ phủ bên trên, tôi bật kêu “Ô!” thích thú. Hóa ra nhà bà ở đường Lang Liêu, một con đường yên tĩnh, gần biển. Vỉa hè mát rợi bóng những cây xà cừ lâu năm cao lớn. Các ngôi nhà trên đoạn đường này đều lùi sâu vào giữa những vườn cây um tùm cách xa mặt đường và cách xa nhau. Không hàng quán không cửa tiệm. Đây không phải khu phố buôn bán nhộn nhịp. Tôi gọi nó là con đường ẩn cư, con đường vương giả của những ngôi biệt thự nhỏ.
Nhà cô Chi cũng là một ngôi biệt thự xinh xắn nằm giữa một khuôn viên rộng. Toàn bộ khu đất trước nhà trồng cỏ và hoa, có chừa một góc trồng ít rau thơm với mấy vạt rau cải. Sau nhà là vườn cây ăn trái vươn lên những tán lá xanh rì. Tôi theo cô Chi đi qua vườn cỏ, vòng qua lối đi lát đá trước nhà đến cửa hông bên trái mở ra một khoảnh sân đất mịn, sạch sẽ dưới bóng một cây khế già. Dưới gốc khế đặt một chiếc bàn mặt đá nhỏ cùng mấy chiếc ghế đá. Từ trong nhà tiếng chồng cô hỏi vọng ra: “Em về rồi đó hả?”. Cô Chi “Dạ!”. Trong nhà còn có tiếng một ông khách nữa. Cô Chi ngồi xuống bậc cấp cửa hông, kể lại chuyện ở đại hội công đoàn. Và ba người họ nói chuyện với nhau.
Tôi thích ngay cây khế già cành lá xum xuê. Thời ấy hầu hết những ngôi nhà khá giả cũ trong thành phố đều thấy có một cây khế. Cũng như một số ngôi nhà khác có trồng giàn hoa giấy trước cổng. Người ta tin rằng nhà có cây khế sẽ làm ăn được. Còn giàn hoa giấy trong những năm sau giải phóng ngặt nghèo khó khăn đó là biểu tượng của phong lưu. Nhưng cây khế còn làm tôi nhớ đến chị Hài, chị gái của cái Nhung kế toán. Lúc đó chị Hài ngoài ba mươi, mới từ quê ra ở với cái Nhung. Hôm trước tôi nghe chị kêu bị nổi mẩn ngứa khắp người, chắc tại ăn cá ươn quá, cá ồ bán tem phiếu thường ươn nhũn. Và chị ước giá có lá khế mà tắm.
Tôi hỏi xin cô Chi: “Cô, cho cháu xin ít lá khế”. Cô Chi ngừng nói chuyện, đáp nhẹ nhõm: “Ừ, hái đi”. Tiếng chồng cô: “Ai vậy em?”. “Dạ không, con nhỏ mới về cơ quan em í mà”. Cô đáp rồi họ lại nói chuyện tiếp mà không sợ tôi nghe vì tôi không biết ai, chẳng hiểu gì về tầng lớp ấy của họ. Hái xong nắm lá khế tôi chào cô Chi đi về, cô nói: “Ừ. Rảnh cứ tới chơi, nghe”.
Hôm sau tôi đi làm, mấy người ở cơ quan hỏi: “Sao? Hồi hôm qua theo bà Chi về đó ăn gì?”. Tôi hào hứng nói về ngôi nhà của cô Chi. Nó đẹp. Nó xinh xắn nhẹ nhõm, dễ thương. Tôi nói tôi thích một ngôi nhà như vậy lắm. Mọi người cười. Anh phó phòng còn trề môi, nhái lại: “Em thích một ngôi nhà như vậy lắm!”. Nghe họ nói chuyện tôi mới biết ngôi nhà đó trước là biệt thự của một gia đình đã bỏ đi nước ngoài. Ông chồng cô Chi cũng là một trí thức con nhà giàu hồi mấy năm đã bỏ nhà đi nhảy núi. Nay ông được phân cho ngôi biệt thự đó cũng coi như đền bù…
Cách vài ngày sau tôi lại tới nhà cô Chi chơi để xin lá khế, vì chị Hài dặn tôi “lúc nào lại hái cho chị xin nắm nữa”. Lần khác tôi đến vào chủ nhật và gặp được cả cái Hạnh, con gái cô. Nhìn thấy nó tôi mới nhớ người ta nói nó là con riêng của…không biết của cô Chi hay ông chồng cô, tôi quên mất. Cô Chi sai “hai chị em”, tức cái Hạnh và tôi đi mua gạo. Khi đó tôi đã được toàn quyền sử dụng một chiếc xe đạp của cơ quan vào việc đi đưa công văn. Khung xe hàn từ ống nước cũ tận dụng nên nó vừa cao vừa nặng so với tôi. Tôi chở gạo, cái Hạnh chở bao khoai khô (ăn độn) trên chiếc xe đạp mini. Hạnh mặc chiếc áo váy hoa đã cũ, tóc xõa bỏ rối không nón mũ. Mới 13 tuổi, cái tuổi chưa trổ mã nhưng Hạnh đã có nét đẹp mê hồn. Gương mặt, đôi mắt, cặp chân mày, cái miệng…Tôi chỉ muốn nhìn nó mãi. Tôi bắt chuyện nhưng Hạnh không hưởng ứng. Tôi hỏi gì nó đáp nấy và không cười. Nó gọi tôi bằng chị nhưng không xưng em.
Hôm đó cũng là lần đầu tiên tôi được vào phòng khách, nơi ông chồng cô Chi vẫn ngồi tiếp chuyện những ông khách. Và tôi bị bất ngờ. Phòng khách nhỏ gọn, giản dị vừa phải, không quá rộng lớn, không trang hoàng lộng lẫy sáng choang làm người ta phải e dè như tôi tưởng. Trong phòng chỉ có một chiếc bàn và bốn chiếc ghế, một tủ rượu nhỏ, một cái kệ gỗ mỏng mảnh gắn trên tường trên đó để những đồ vật trang trí hay hay như một con búp bê, một giỏ hoa khô, cái vỏ ốc, khúc rễ cây dương xỉ hình thú, những quả thông… Bức tường ngăn cách phòng khách với thềm hè chỉ xây kín một nửa, nửa kia để tường lửng. Có lẽ khi tiếp khách ông chồng cô Chi thường ngồi phía trong bức tường cao, từ ngoài đi vào không nhìn thấy. Còn hôm đó tôi với cô Chi ngồi cạnh bức tường lửng nhìn ra ngoài vườn nắng. Gió thổi vào tận nơi mát lịm mang theo mùi hoa mùi lá cỏ. Tôi đang hãnh diện được làm khách của ngôi nhà, thì chị bếp đi chợ về. Cô Chi đứng lên vẫy chị lại, vừa nói: “Coi thử cái thịt bò nó mua thế nào”. Chị bếp đặt cái giỏ nhựa xuống nói: “Không có dây phô, lấy phi lê”. Trong lúc cô Chi xem xét giỏ đồ ăn cho ngày chủ nhật, tôi hỏi chị bếp: “Dây phô có phải thịt thăn không chị?”. Chị bếp không đáp. Tôi đoán đó là thịt bò mua tiêu chuẩn tem phiếu của ông chồng cô Chi. Phải tem phiếu loại nào mới có thịt bò. Còn tem phiếu cỡ nhân viên như tôi nộp cả cho bếp tập thể. Bếp chỉ dám mua mỡ để dành chiên xào cho cả tháng.
Chị bếp cũng là người hơi đặc biệt. Dù cô Chi nói chị là cháu của cô nhưng chị rất ít lời. Khi cần nói chị mới nói, nói thẳng vào việc hoặc đáp thẳng vào câu hỏi, không thừa thiếu một từ một chữ, không lặp lại lần thứ hai, không dạ thưa. Khi cô Chi xem xong ra hiệu bảo chị xách đi chị mới trả lời câu tôi hỏi bằng đúng năm từ: “Dây phô là thăn bò”.
Đến lần kế tiếp đó, khi tôi lại tới chơi để xin lá khế thì cô Chi nói thẳng: “Thôi không có bẻ nữa. Được rồi!”. Khi đó có cả cái Hạnh và chị bếp ở nhà. Có cả một ông khách đang ngồi trong phòng khách nói chuyện với chồng cô. Ông khách đi ra cửa hỏi: “Lá khế để làm gì, chị?”. “Dạ, nó có bài thuốc anh à”. Ông khách: “Vậy thôi chào chị nghen. Xin phép chị em về”. “Dạ, anh về”, cô Chi đáp.
Ông khách đi đến gần tôi để lấy chiếc xe cub dựng cạnh gốc khế. Tự nhiên tôi thấy hoảng nghĩ ông khách này đi rồi sẽ chỉ còn mình tôi ở lại đây. Tôi vội bỏ cành khế lỡ bẻ lại và cũng dắt xe đi ra. Khi đi qua chỗ cô Chi ngồi, tôi lúng búng nói: “Chào cô cháu về”. Cô Chi không nói gì. Ra khỏi cổng nhà cô ra đến mặt đường tôi nhảy lên xe đạp hết tốc lực như chạy trốn.
Tôi không đến ngôi biệt thự đó nữa. Mấy ngày sau chị Hài cứ hỏi: “Nay không hái lá khế cho chị nữa a?”.
Đúng ra hôm đó tôi nên xin lỗi cô Chi nhưng lại không nghĩ ra. Cũng có thể lúc đó bà đang không được vui, đang bực bội chuyện gì đó mà tôi không biết. Sau tôi không còn cơ hội nữa vì bị giảm biên chế phải chuyển chỗ làm khác cách rất xa. Rồi lấy chồng, sinh con, lao vào cuộc trả nợ trần gian. Tôi chẳng còn hồn sức nào để nhớ đến lời xin lỗi còn nợ ấy. Hơn hai năm sau tôi mới có việc đi qua đoạn đường đó. Vừa nhìn thấy ngôi biệt thự tự nhiên chân tôi đạp xe khựng lại. Và tôi nhìn thấy ông chồng cô Chi- ông chủ ngôi biệt thự- mặc bộ pijama trắng đang ngồi xới cỏ tỉa hoa gì đó giữa vườn. Ông là người có tướng đẹp và sang, nhưng chỉ đến khi đó tôi mới nhìn thấy ông. Và cũng chỉ đến khi đó tôi mới hiểu ra không phải ai cũng được tự nhiên tự tiện ra vào ngôi nhà của ông như tôi đã từng.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn, thấy thương mình ghê gớm. Mới hồi nào theo cô Chi tới đây chơi tôi vẫn còn là đứa con gái tí tởn vô tâm vô tư đến vậy. Còn lúc này tôi đã là một bà chủ hộ xanh mét, suy nhược, tong teo, đang ăn cắp giờ nhà nước để tranh thủ đến Công ty Thức ăn gia súc xin mua cám gà, sau khi đã đi xếp hàng từ bốn giờ sáng mua củi nhưng vẫn không mua được vì tới lượt mình thì củi hết.
Đang đạp xe uể oải tôi bỗng giật mình guồng thật nhanh khi nhớ ra mình đang đi đâu. Vừa đến cổng Công ty Thức ăn gia súc tôi đã gặp những người nhanh chân đến trước tôi đang đi ra. Họ thông báo một câu rất quen thuộc thời bấy giờ: “Giám đốc đi vắng!”, xong họ điềm nhiên ra về. Họ là những người còn mạnh mẽ tỉnh táo, họ biết ra về ngay để còn làm việc khác. Còn tôi ngay tức thì tôi không biết phải làm gì vì lại rơi vào vùng bóng tối của mụ mẫm . “Giám đốc đi vắng” tôi lảm nhảm, cứ thế leo lên lầu, ngơ ngẩn ngồi xuống chiếc ghế dài ngoài hành lang trân mắt nhìn tấm biển “Phòng Giám đốc” gắn bên trên cánh cửa đóng chặt im lìm, tự hỏi người ta sống để làm gì thế nhỉ? Bỗng tôi thấy cô Chi đi lên. Cô Chi? Tôi chào: “Cô!” và nói: “Giám đốc đi vắng rồi cô ạ”. Cô Chi ngó cửa phòng giám đốc rồi cũng ngồi xuống ghế. Cô không khác mấy, chỉ hơi mập ra và trang điểm đậm hơn. Tôi hỏi: “Cô cũng nuôi gà ạ?” chủ ý để xem cô còn nhớ tôi không. Nhưng cô Chi vẫn không nhìn tôi, thở dài nói: “Nuôi có mấy chục con gà mà…”. Vừa lúc đó có một cán bộ của Công ty đi qua. Anh này bỗng dừng sựng lại trước mặt tôi, kêu lên: “Ủa, chị!”, rồi nhìn về phía cửa phòng giám đốc như chợt hiểu.
Và thật kì diệu, không biết anh cán bộ làm phép nào mà cánh cửa phòng giám đốc bỗng nhiên mở ra. “Chị, chị vô đi”, anh ta nói rồi cầm xấp giấy tờ đi sang phòng khác. Cô Chi đứng lên bước vào. Tôi bám theo. Ông giám đốc đang ngồi sau bàn đứng lên “mời chị ngồi”. Ông rót trà mời cô uống. Ông hỏi: “Chị mới đi Hà Nội về à?”. “Có, tôi mới đi về”, cô Chi đáp. Hai người nói chuyện dăm ba câu rồi cô Chi đưa cái giấy ra: “Tôi có nuôi ít con gà. Xin anh duyệt cho ít cám”. Ông giám đốc cầm lấy cái giấy hí hoáy viết, kí cái roẹt. Xong ông đưa lại cho cô Chi. Tôi đứng ngay sau lưng cô nhìn rõ những chữ ông ghi bên lề:“Duyệt bán 50kg”. Cô Chi mân mê tờ giấy vài giây rồi đứng lên cảm ơn ông giám đốc đi ra. Trong phòng còn lại mình tôi. Tôi liều mạng cũng xìa cái giấy ra. Tôi nghĩ ông giám đốc sẽ cau mặt nói: Hết rồi! Nhưng không, ông đã cầm lấy, thở dài ghi vào bên lề: “Duyệt bán 20kg!”. Tôi như khỏe lại, không dám tin mình đã thành công. Tôi chào ông như chào một ân nhân trước khi biến ra khỏi cửa.
Hôm sau tôi lại đi từ 4 giờ sáng xếp hàng mua cám gà. Mua xong nắng đã lên gay gắt. Chợt tôi nhìn thấy cái Hạnh. Cái Hạnh? Nó đang loay hoay cạnh cái xe đạp với hai bao cám. Tôi đi tới định ra tay giúp nó nhưng sức tôi yếu quá cứ giữ được bên này lại nghiêng đổ bên kia. Cái Hạnh sốt ruột: “Đưa đây cột cho”. Đến lượt tôi giữ xe cho nó. Nó chằng cột hai bao cám lên hai bên xe gọn hơ. Vậy ra nó giỏi hơn tôi, không phải như hồi “hai chị em” đi mua gạo. Lúc đó nó cũng 14, 15 tuổi rồi. Mùi cám tổng hợp có xay lẫn cá khô dính trên chiếc áo liền váy của nó. Cái Hạnh gạt mồ hôi trên mặt nhìn tôi như định nói gì nhưng rồi nó lại lên xe đạp đi. Nó có lớn lên nhưng vẫn vậy, vẫn ít nói và không cười. Từ đó tôi không gặp lại nó nữa.
Chuyện chỉ có vậy nhưng không hiểu sao về sau lâu lâu tôi lại nhớ lại. Đã vài lần tôi trở lại đường Lang Liêu, loanh quanh tìm lại số nhà ấy cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Đường Lang Liêu nay chỉ còn lại cái tên. Ngôi biệt thự đã bán từ lâu, tất nhiên, từ khi ông chồng cô Chi về hưu rồi qua đời. Những ngôi biệt thự khác quanh đó cũng đã biến mất. Một dãy dài những khách sạn, nhà hàng sáng choang thế chỗ. Cửa sắt các tòa nhà đều chồm ra sát mặt đường, rối mắt biển hiệu tấp nập người xe. Không vườn cây không sân cỏ. Không còn chút dấu vết nào của đoạn đường yên ả từng có những ngôi biệt thự nhỏ ẩn trong những khu vườn năm xưa. Tất cả biến mất như một giấc mơ, tuy tất cả vẫn trên nền đất cũ nhưng đất là phần không thấy được nên tôi vẫn cảm giác mọi thứ đã biến mất.
Tôi cùng gần như đã quên chị Hài nếu không gặp lại Nhung. Ngày đó sau khi tôi bị giảm biên chế Nhung cũng lấy chồng rồi cùng chồng chuyển vào một tỉnh phía trong, chị Hài cũng đi theo nó. Chúng tôi không liên lạc tin tức từ ngày đó vì thật ra cũng không phải bạn bè thân thiết. Gần hai chục năm trôi qua đột nhiên Nhung xuất hiện, gọi cho tôi. Nó nói tìm thấy số máy bàn của tôi trong danh bạ của nhà nghỉ.
Nhung khoe vừa xây xong một biệt thự nữa và giờ đi nghỉ xả hơi. Còn cái trước đang cho thuê. Tôi không ngạc nhiên. Ngay từ những năm khốn khổ ấy Nhung đã có khiếu kiếm tiền rất giỏi. Nó còn bắt bồ được với một người không hiểu làm gì mà bộ dạng trông nhầu nhĩ thật không xứng với nó, nhưng có rất nhiều tiền. Mỗi chủ nhật người ấy lại đến đón Nhung đi chơi cùng một, hai người bạn của anh ta và Nhung thường rủ tôi đi cùng cho có bạn. Nhờ những lần ăn theo đó mà tôi được biết có những chốn ăn nhậu rất kín đáo ngay giữa lòng thành phố dành cho những thành phần giấu mặt tới đó xài tiền một cách khó hiểu thời bấy giờ.
Cầm những tấm ảnh chụp ngôi biệt thự của Nhung, đáng lẽ phải khen thì tôi lại nói:
-Hoành tráng quá, nhưng hơi nặng nề. Nếu là tôi tôi sẽ xây nhỏ lại để chừa nhiều không gian trống hơn. Ngày trước tôi thích một ngôi biệt thự ở đường này lắm. Nó nhỏ thôi, nhìn xinh xắn nhẹ nhõm như một cụm nấm trắng giữa khu vườn. Nói văn vẻ thì nó là hiện thân của sự ngây thơ, tôi thích lắm.
-Nhà bà Chi chứ gì? .
Tôi ngạc nhiên vì Nhung vẫn nhớ. Còn ngạc nhiên hơn khi nó nói: “Thích sao không biết đường kiếm lấy một cái mà ở? Ủa, nói thật chứ đùa à. Hồi đó nghe bà về khen tôi đã tới đó nhìn mấy lần. Lúc đó tôi đã nghĩ bằng giá nào tôi cũng phải có được một cái nhà như vậy. Giờ thì tao có hai cái to hơn. Kiểu đó xưa rồi, giờ ai xây biệt thự kiểu đó nữa”.
– Nhưng bên trong nó thế nào?- Nhung bỗng hỏi
Bên trong à? Tôi thú nhận không biết gì về bên trong ngôi nhà, không biết nó có tất cả mấy phòng, các phòng bài trí ra sao. Chỉ biết mỗi phòng khách. “Tôi đã được ngồi trong phòng khách với bà Chi hẳn hoi, như người lớn ấy chứ”.
-Hồi đó bà tới đấy làm gì?
-Tới chơi thôi. Tới xin lá khế.
Nhung cười. “Cũng hay. Tôi không hiểu sao bà Chi bả lại thích một đứa như bà”.
Tôi cười hỏi thăm chị Hài. Nhung bảo chị vẫn làm công việc quét dọn, tưới cỏ cho một khu công viên do nó xin cho. “Cũng khổ với bà ấy lắm. Bả cũng khùng khùng giống mày”. Theo Nhung, cái khùng nhất của chị Hài là đã chủ động đi cưới vợ khác cho chồng, còn mình tay không ra khỏi nhà. Vì sau lần bị hư thai chị đã không còn sinh con được nữa.
“Đi!”, Nhung đứng lên giục tôi đi ăn cái gì đó. Ăn gì? Bà thích ăn gì cứ thoải mái. Tôi giờ đâu có dám ăn nhiều.
-Tôi thích khoai nướng bắp luộc ngoài biển- tôi nói.
-Con khỉ. Kiếm nhà hàng nào có chỗ ngồi hay hay.
Tôi thở dài. “Thích gì cứ thoải mái” là thế này đây. Tôi bao giờ cũng phải chịu thua trong những chuyện tương tự.
Chúng tôi lại đi ra đường Lang Liêu. Cho tới giờ tôi vẫn không biết cô Chi đã nuôi gà chỗ nào trong khuôn viên ngôi biệt thự. Và không hiểu vì sao năm đó bà lại rủ tôi về nhà. Không lẽ ngay ngày đó bà cũng đã cảm thấy cô độc ở cơ quan? Nói cho nhanh tôi không hiểu gì về bà cả.
Và hóa ra tôi cũng không hiểu gì về Nhung. Không bao giờ tôi nghĩ ngay trong những ngày đó mà Nhung đã có ý nghĩ sẽ “kiếm” bằng được một ngôi biệt thự. Tại sao chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện phải có bằng được những cái mình thích? Kể cả khi đi chơi với Nhung và thấy nó được anh người yêu sẵn sàng mua sắm cho mọi thứ nó thích tôi vẫn không hề có ý nghĩ sẽ “kiếm lấy” một người như vậy cho mình. Có lẽ đó là số phận.Tôi đã yêu thích ngôi biệt thự xinh đẹp ấy cũng như đã từng yêu thích những giàn hoa giấy nở đỏ trong những hẻm phố còn lầm bụi, hay đã thương những dây hoa tigôn nở hoang dại trên những hàng rào dây kẽm gai gỉ vàng sau chiến tranh. Và chỉ vậy thôi. Tôi chưa bao giờ nằm mơ thấy nó. Nhưng, nếu được hoán đổi thành cô Chi ngày đó hay Nhung bây giờ với tất cả những gì họ có tôi có đổi không? Không. Có thể tôi khùng khùng đúng như Nhung nói. Nhưng tôi vẫn chỉ muốn là tôi thôi, cho dù rất nhiều lần tôi ước mình giàu có.