Cứ khoảng năm giờ chiều, một chiếc xe cub lấm lem như trâu tắm bùn lại chạy tà tà khắp các nẻo đường làng phát đi đoạn băng thu âm sẵn: “Đêm nay tại sân khấu thôn Thái An đoàn nghệ thuật cải lương Thiên Hương sẽ trình diễn vở cải lương tâm lí tình cảm …. Đoàn cải lương Thiên Hương với sự góp mặt của các nghệ sĩ…”. Chưa hết bài giới thiệu tiếng loa đã đi qua. Nhưng vì đã quen với tiếng loa rè như giọng chàng nghiện mỗi chiều nên người ta ít quan tâm đến thành phần đoàn hát, chỉ chú ý nghe coi đêm nay diễn tuồng (vở) gì. Bà ngoại ngó ra cửa nghiêng tai cố lắng nghe nhưng rồi vẫn phải quay vào hỏi mấy đứa nhỏ:
-Nó vừa nói đêm nay diễn tuồng gì đó bay?
-“Lên đời”- Một đứa đáp gọn lỏn và không nói gì thêm.
-“Lên đời”. Tuồng này chắc mới.
Bà ngoại không hào hứng, vẻ gần như thất vọng, nhưng vẫn giục: “Nấu cơm chưa? Nấu đi, mau ăn sớm đi coi”.
*
Sân khấu thôn Thái An là một bãi cỏ hoang rộng mênh mông ngăn cách với cánh đồng nước bên cạnh bằng một con đường đất. Cánh đồng nước nhiễm mặn này trước kia là ruộng cói, là đất chuyên trồng cói trồng lác để dệt chiếu, bây giờ vẫn còn sót lại mấy bụi cói hoang mọc chen lẫn với rau muống trời bò nghêu ngao. Còn bãi cỏ bên này trước kia là ruộng lúa. Nhưng nay ruộng đồng sắp thành khu đô thị mới. Cả ruộng lác bên kia và ruộng lúa bên này đều đã được đền bù, chỉ còn chờ đổ đất tôn nền. Sau khi gặt xong vụ lúa cuối cùng bà con không ai đốt đồng. Chiều chiều có một vài nhóm người rảnh rỗi lại ra ngồi trên gốc rạ giữa cánh đồng nhậu chơi. Hoặc một nhóm khác không nhậu, chỉ ra ngồi chơi nhìn trời đất. Nhóm này có cả mấy đứa con nít và một con chó vàng. Không khí ở mỗi nhóm có khác nhau. Nhóm không nhậu thường là một gia đình, kéo cả nhà già trẻ lớn nhỏ ra ngồi chơi trên đám ruộng từng là của nhà họ, nhưng từ đây về sau không còn là của họ nữa, sẽ không còn cả lúa và gốc rạ. Tuy vậy chỉ có đám con nít cùng con chó chơi giỡn chạy đuổi nhau. Những người lớn ngồi bó gối nhìn trời, rồi nhìn quanh nói mùi rơm rạ mới gặt thơm ghê, thỉnh thoảng họ la bọn trẻ một câu coi chừng té. Bên nhóm nhậu không khí sôi động hơn. Những người đàn ông đàn bà vừa nhậu vừa hồ hởi tranh cãi, dự đoán về diện mạo tương lai làng mình và hai cánh đồng. Chỗ này qui hoạch làm vườn hoa công viên, chỗ kia xây siêu thị, nơi đây sẽ mở đường rộng bao nhiêu…
Nhưng sau đó gốc rạ khô mục dần và cỏ lan nhanh thay thế. Vào mùa khô cánh đồng trở thành bãi cỏ hoang cho đám con nít tập đá bóng, cho những bầy trâu nhởn nhơ.
Người rảnh trâu cũng rảnh. Thôn Thái An bình yên đến nỗi người ta chỉ cần trồng chục gốc keo vòng quanh một gò đất, rồi giằng nối mấy sợi kẽm gai thưa từ cây này sang cây kia là quây thành một cái chuồng nhốt trâu lộ thiên ban đêm, giữa đồng. Ban ngày đàn trâu chỉ mỗi việc lang thang gặm cỏ chơi, chẳng phải cày kéo gì. Vì rảnh quá chúng sinh nhớ lũ cò trắng.Từ ngày ruộng không còn lúa cò cũng vắng luôn. Không còn thấy đâu cảnh lũ cò nhởn nhơ bay lên bay xuống chơi cùng bầy trâu trên cánh đồng mới gặt nữa. Có thể lũ cò đã có được thông tin bí mật rằng các bạn trâu của chúng đến một ngày sẽ lần lượt được vào lò mổ để lên đời thành thịt bò, nên chúng lo bỏ chạy trước chăng?
Khi đã an nhàn người ta mới nghĩ tới nghệ thuật. Và một đoàn cải lương đã về đúng lúc. Họ chọn một khoảnh cao ráo nhất bãi cỏ để dựng sân khấu ngoài trời. Giá vé 15 ngàn cho người lớn, 10 ngàn cho trẻ con. “Hai ký lúa”, bà con tính toán. “Giờ này còn lúa với gạo. Mười lăm ngàn thì nói mười lăm ngàn cho rồi!”. Họ vừa cãi nhau vừa cắp ghế đi ra bãi, đi về phía sân khấu sáng trưng ánh đèn đang mở loa hát rộn ràng, những lớp màn xanh đỏ gió thổi bay tung như vẫy gọi.
Đêm nào khán giả cũng được nghe ca nhạc khuyến mãi cả tiếng đồng hồ trước giờ diễn. Hết tân nhạc, cổ nhạc đến tân cổ giao duyên. Đừng phải băn khoăn gì. Vì các nghệ sĩ đang say, đang phê. Chỉ những ai hiểu được cái say cái phê của các nhà thơ khi có dịp được đọc thơ trước công chúng thời kinh tế thị trường, mới có thể hiểu cho các nghệ sĩ khi họ được hát. Về đây bỗng dưng họ gặp được công chúng một thời của cải lương xưa. Cho dù chỉ năm, ba chục khán giả dưới sân bãi nhưng là khán giả thứ thiệt, những khán giả đã bán lúa lấy tiền đi coi hát chứ không phải những khách mời được trả thù lao để ngồi xem trong các hội diễn.
Sau một giờ ca nhạc dạo đầu, khán giả lại kiên nhẫn ngồi chờ các diễn viên vào thay trang phục và hóa trang xong mới bắt đầu đêm diễn. Diễn viên thay đổi lời thoại tùy hứng, lúc này kêu phu quân với thiếp, lúc khác lại gọi ông xã xưng em. Lúc này nói năm đồng theo kịch bản thời xưa, lúc khác quên lại nói năm triệu thời giá ngày nay. Không sao, khán giả cười xòa bỏ qua hết. Khi chuyển cảnh không cần kéo màn hay tắt đèn, chỉ cần tháo tấm phông cảnh cho rớt xuống sàn, rồi một diễn viên đóng vai phụ bước ra. Diễn viên chưa kịp diễn dưới sân bãi đã lập tức có tiếng khán giả vọng lên: “Ông soát vé. Ông soát vé”. Nhìn lại thì đúng diễn viên này là người vừa đứng xé vé ngoài cổng thật. Một khán giả vẻ hiểu biết nói với những người ngồi xung quanh: “Ông đó là đạo diễn á. Quan trọng lắm á!”. “Sao biết?”. “Họ ở nhờ nhà tui mà sao không biết. Còn bà người ở đi dẹo dẹo kia là nghệ sĩ Hương Trà. Chứ sao. Đóng người ở, đóng bụi đời xì ke này kia mới khó, chứ đóng vai cán bộ cắp cặp đi họp dễ òm”.
Im coi kìa. Một diễn viên nhí vừa được dắt theo ra sân khấu làm nhóm khán giả im bặt. Thật ra đứa bé không phải diễn gì nhiều, nó chỉ việc ra đứng đó cho người lớn diễn, tức mắng mỏ “đánh đập” hoặc bồng lên để xuống. Dù vậy việc xuất hiện của nó cũng làm khán giả vui thích. Họ tán thưởng bằng cách chạy tới sát sàn diễn với tay lên đưa cho nó, không phải hoa, mà là một tờ polymer hai chục ngàn. Một người rồi hai người… Diễn viên nhí đứng sát mép sàn diễn hồn nhiên thâu nhận tiền thưởng. Sân khấu làng có lúc lạ vậy, nó lại dành phần thưởng cho việc không diễn gì là sao!
Nhưng tại sao người ta lại chạy qua chạy lại lộn xộn phía dưới sàn diễn như vậy được? À, vì không có dàn nhạc. Chỗ dành cho các nhạc công ngồi phía dưới sân khấu chỉ thấy mỗi một người. Người này cũng chỉ làm mỗi việc ngồi xoay xoay vặn vặn mấy cái núm điều chỉnh âm thanh, một công việc thuần máy móc, không nghệ sĩ cũng chẳng nghệ thuật. Lẽ ra khán giả cũng không chú ý tới sự có mặt của người này. Nhưng bỗng nhiên điện cúp cái rụp. Tất cả im bặt. Sau mấy giây lặng đi dưới sân bãi bắt đầu nổi lên tiếng huýt sáo, tiếng gọi nhau. Phải có tiếng gì đó để thay thế. Im lặng là không thể được. Tiếp đến gió nổi lên. Rồi sấm nổ. Sau tất cả là tiếng alô của đoàn hát xin lỗi và xin dừng đêm diễn tại đây vì… trời sắp mưa.
Khán giả đứng lên nhốn nháo rời sân bãi. Phông màn được tháo ra hạ xuống trong ánh đèn pin loang loáng. Vài đứa con nít leo lên chạy đuổi nhau trên sàn diễn. Đúng lúc đó điện bừng sáng, hai chiếc loa thùng cũng lập tức sống dậy gào lên thảm thiết:
-Cha…a…a!
-Co…on…con!
Bà ngoại giật mình ngoái nhìn sân khấu đang tháo dở, ngơ ngác hỏi: “Cái gì vậy bay?”. Bọn trẻ láu cá nói: “Mấy người đạp phải cứt trâu họ la đó ngoại!”. “Bậy nào. Sắp lên phường lên phố rồi ai để zậy. Công ty Vệ sinh người ta dọn liền chớ!”.
Sau mỗi đêm đi coi hát về, bà ngoại thể nào cũng lại hoài cổ: “Hồi xưa người ta hát kĩ lắm…”.Rồi bà kể lớp này lớp kia ngày xưa người ta hát kĩ như nào. Có cả chục người ngồi bên dưới khảy đờn kìm đờn cò, đờn bầu, thổi sáo… Thấy bà nói hoài, một lần có một đứa cháu nói lại một câu đại diện cho cả mấy đứa cháu: “Vậy là được rồi. Cần gì phải coi hát kĩ. Ngoại đòi hỏi quá.”
*
Vậy rồi đoàn hát cũng hát liên tục cho nửa tháng liền. Sau nửa tháng lưu diễn tại sân khấu thôn Thái An, đoàn thắng lợi nhổ sào đi nơi khác. Chiều chiều vắng tiếng loa, nhiều khán giả lại ra bờ ruộng đứng nhìn bãi đất trống. Họ bắt gặp đàn trâu vẫn đang ngẩn ngơ tìm bóng dáng lũ cò.